Biên soạn : TS. NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC
THẦN
TÍCH
THÔN
NGA MY THƯỢNG
VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Năm 2010
------------------------------------------------
Lời mở đầu
Ngày 03/9/1949, Đình làng ta bị giặc Pháp
đốt, Thần phả và các sắc phong đều mất cả. Hơn 40 năm, mọi việc chỉ còn dựa vào
trí nhớ của các bậc cao niên trong làng.
May thay, vào năm 1994, cụ Nguyễn Huy
Hiên (sinh năm 1928, sống tại xóm Thượng Du ) đã tình cờ sưu tầm, phô tô lại được
5 trang Thần tích của làng Nga My Thượng. Đây cũng có thể coi là một kỳ công,
vì phát hiện được người đang lưu giữ bản
Thần tích đã khó, mà mượn được để đi phô tô lại càng khó hơn. Không hiểu sao bản
gốc Thần tích của làng ta lại nằm trong
tay một người ở thôn bên cạnh, trong khi mọi người trong làng tưởng rằng tất cả
đã cháy, mà lại những hơn 40 năm im hơi lặng tiếng (?).
Bản Thần tích phô tô nhờ công của cụ
Nguyễn Huy Hiên thật đáng quý. Nó như ngọn đèn soi rọi lại gốc tích “Thần – Người
- Đất” quê ta từ mấy ngàn năm trước; đến lúc này lớp hậu sinh chúng ta mới biết
rõ Thần Thành hoàng làng ta là ai, gồm mấy người, lúc tại thế đã sống và có mối
quan hệ với người và đất Nga My như thế nào, vì sao lại là Thành Hoàng của làng
ta. Ngoài những thông tin đó, bản Thần tích còn cho chúng ta biết; Nga My ngày
xưa về mặt tổ chức hành chính gọi là Trại, đến thời Nguyễn lại gọi là Ấp, trong
Trại có hai Thôn; từ ngàn xưa đã có tên là Nga My và chia ra Thượng, Hạ. Người
Nga My Thượng hiền lành, chất phác, thủy chung sau trước, mấy ngàn năm nổi
chìm, sẻ chia mọi nỗi vui buồn cùng đất nước. Cái tên “ Nga My” cũng đã có từ
thuở đó. Nga My là tên ngọn núi đẹp nhất ở Trung Quốc; vì vậy, tuy quê ta không
có núi, nhưng về mặt phong thủy, các cụ vẫn nói rằng quê ta có núi, có sông;
núi là núi Nga My, sông là sông Hát, thường
gọi tắt là “Nga sơn – Hát thủy”. Có lẽ vì lý do phong thủy đó mà mấy ngàn năm,
tên làng không thay đổi. Thời đó quê ta chưa có con đê hiện nay, hệ thống đề điều
phải đến đời Trần mới bắt đầu xây dựng, theo các nhà nghiên cứu, hơn hai ngàn
năm trước mực nước biển thấp hơn ngày nay 6 mét, vì vậy đất đai cao ráo, không
ngập lụt, phong cảnh xứ Bãi làng ta chắc là đẹp lắm, vì vậy Thiện Công khi đến Trại Nga My, mến cảnh, mến
người, liền ra lệnh dựng nhà ngay bên bờ sông để dạy dân chữ nghĩa, sau này mỗi
khi quay lại, đều lấy đó làm nơi làm việc ở (“hành tại”) Nga My. Chỗ “hành tại”
đó được dân Nga My thờ Thiện Nguyên Công khi còn sống ( gọi là sinh từ) và khi
ông mất cũng lập miếu thờ tại đó. Chắc chắn vị trí đó là nơi Quán Dưới trước
đây tọa lạc. Để nói lên vẻ đẹp của nơi đó, có câu ca dao truyền lại rằng:
“
Lục Đầu Giang biết bao giờ cạn
Quán Nga My biết vạn nào cây”
Quang Công, trong trận đánh năm Đinh Mùi (
năm 14 trước công nguyên) chống quân Vương Mãng, gặp địch tại Sơn Nam, thấy thế
giặc mạnh, đã rút quân về Nga My để liệu bề phòng ngự. Quân giặc đuổi kịp đến tận
Nga My, Ngài cưỡi ngựa xông ra cự địch, quân thù xiết chặt vòng vây, biết rằng
khó thoát nhưng không để bị giặc bắt, ngày 10 tháng 2 năm ấy, Ngài đã tuẫn tiết
mà hóa ở Xứ Khu Đống làng ta, mộ của ngài nằm tại Khu Đống ( trong đó có Đống
Thánh, Đống Mẻ, Đống Mồi, Đống Bằng, Đống Ba…không biết ở Đống nào), theo cụ
Hiên, nay là khu Đồng Tắt ngoài; con ngựa chiến của Ngài cũng được dân chôn ở Xứ
Nang gần đó. Sau khi hóa, Ngài đã hiển
linh trên dòng sông Hát làm cho quân Hán
kinh sợ mà bỏ chạy.
Bản
Thần tích của làng ta do ông Nguyễn Hữu Dực phụng mệnh vua Thành Thái
nhà Nguyễn, tới tìm lại bản gốc cũ từ các triều đại trước, lưu giữ ở Đền
Hùng và sao ( chép) lại vào năm Thành
Thái thứ 11(1899) với mục đích để dân
Nga My biết rõ, lưu giữ và thờ phụng. Ngoài ra, qua bản sao này, thần tích cũng
được lưu truyền rộng rãi trong dân gian ( như vậy, chúng ta biết thêm một điều
nữa là trước đây Thần tích có một bản chính được lưu giữ tại Bộ Lễ của Triều
đình và ở Đền Hùng cũng lưu giữ một bản Thần tích của các bậc Đại vương Thành
Hoàng Thượng Đẳng thần ).
Cụ Hiên đã nhờ tiến sĩ Đỗ Thị Hảo, công
tác ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chuyển từ chữ Hán ra phiên âm Hán – Việt ( là
cách đọc chữ Nho của người Việt Nam ) và dịch nghĩa.
Để tiện lưu giữ, in ấn và phổ biến đến
nhiều người, năm 2010 tôi đã một lần nữa đến Viện Nghiên cứu Hán Nôm nhờ chị Phạm
Hương Lan rà lại bản dịch ( tiến sĩ Đỗ Thị Hảo đã nghỉ hưu), in một bản trên giấy
dó để lưu trong Đình. Khi đó ông Hà Đắc Di chuyển cho tôi tài liệu do Cụ Hà Đắc Thụy (1924 – 2008) đã
dày công sao chép lại và dịch sơ bộ hệ thống câu đối, hoành phi ở Đình làng;
tôi cũng nhận được từ Cụ Nguyễn Huy Hiên và ông Hà Đắc Di một số bài thơ tiêu
biểu có liên quan đến quê hương và cuốn “ Làng Nga My Thượng” do ông Lê Quỳnh
Lưu chủ biên, in, đóng quyển năm 2007. Tôi chợt nảy ra ý định biên soạn một cuốn
tài liệu vừa mang tính tham khảo, vừa có ý nghĩa tuyên truyền, cung cấp cho những
người yêu quê hương có ý định tìm hiểu sâu hơn. Bản chữ Hán, bản phiên âm và bản
tiếng Việt của Thần tích, tôi lập bảng, chia đoạn để cạnh nhau cho dễ đối chiếu,
tạo điều kiện cho những người không biết chữ Hán tham khảo; Hệ thống câu đối,
hoành phi, cuốn thư, tôi về Đình chụp ảnh toàn bộ, kết hợp với tài liệu do cụ
Hà Đắc Thụy để lại, tôi nhờ Viện Hán Nôm dịch và tôi sắp xếp hoàn chỉnh theo ý
nguyện của cụ Hà Đắc Thụy để đưa vào tài liệu. Những điều tôi nghiên cứu có
liên quan đến Thần tích, tôi cũng mạnh dạn chép vào đây, tạo tiền đề cho sự tìm
hiểu, nghiên cứu tiếp theo của các bậc chuyên gia và các thế hệ trẻ sau này.
Trong các câu đối ở Đình làng, qua
hai câu đối:
Hữu mạc quan nghi tăng lẫm liệt
Cô Lê quốc tế thượng hinh hương
và:
Thần công phô luyện tham thiên địa
Quốc tế hinh hương vĩnh trụ duy
có thể hiểu, đời nhà Lê và có
lẽ có một thời kỳ đời nhà Nguyễn, hai vị Đại vương Thành hoàng làng ta đã từng
được tế lễ theo nghi thức cấp quốc gia ( quốc tế) do Triều đình chủ tế.
Một đóng góp nho nhỏ, như một nén hương thơm dâng lên
Nhị vị Thành Hoàng, một tâm tư đau đáu gửi về quê hương. Những gì không mất, còn lại
trong tôi từ thuở ấu thơ cho đến ngày nay, sau hơn 50 năm xa quê, những gì tôi
mới tiếp nhận được ở cái tuổi “ Lục thập nhi nhĩ thuận” (Sáu mươi tuổi nghe thuận
lẽ trời) đều đáng quý, đáng trân trọng và tôi coi đó là “Hồn quê” trong tôi.
Dấu tích Quán Dưới, Quán Trên,
nơi các Ngài “hành tại NgaMy” còn dấu vết, Khu Đống còn kia, Xứ Nang còn đó,
dòng Hát giang tuy chẳng cuộn sóng như xưa, nhưng lòng người dân xứ Nga My vẫn
thủy chung sau trước, vẫn như ngọn núi vươn giữa trời cao, cùng với đồng bào của
mình gìn giữ và xây dựng non sông tạo nên Đất Nước Việt Nam này.
Với sự thành kính trước các bậc
Tiền Nhân, tấm lòng tha thiết với quê hương, lấy điểm tựa từ trong quá khứ,
mong mỏi quê hương ta ngày càng giàu đẹp
để những người con lấy chỗ đi về.
Xin cám ơn sự cộng tác chặt chẽ của Ban Khuyến học, của
cụ Nguyễn Huy Hiên, cụ Hà Trọng Huấn, ông Hà Đắc Di đã giúp nhiều tư liệu và động
viên người biên soạn tài liệu này.
Hà Nội
ngày 08 tháng 9 năm 2010
(Tức
ngày 01 tháng Tám năm Canh Dần)
TS. Nguyễn Đình Đức
Phần một.
BẢN CHỤP NĂM
TRANG THẦN TÍCH VIẾT TAY
Ông Nguyễn Hữu
Dực phụng sao tại Đền Hùng.
vào năm Kỷ
Hợi, nước Đại Nam, Niên hiệu Thành Thái 11 ( 1899)
(Do cụ Nguyễn Huy Hiên sưu tầm phô tô lại),
Phần hai
BẢN VI TÍNH ĐÃ IN ĐÓNG QUYỂN TRÊN GIẤY
DÓ
( Do TS. Nguyễn Đình Đức kính sao lại)
Trang 1
郡
|
漢
|
漢
|
|||||||||||
人
|
昭
|
昭
|
|||||||||||
謝
|
帝
|
帝
|
|||||||||||
氏
|
時
|
時
|
|||||||||||
諱
|
內
|
至
|
|||||||||||
謹
|
地
|
哀
|
|||||||||||
傳
|
龍
|
帝
|
|||||||||||
家
|
編
|
朝
|
|||||||||||
詩
|
猶
|
二
|
|||||||||||
禮
|
屬
|
位
|
|||||||||||
累
|
我
|
大
|
|||||||||||
世
|
國
|
王
|
|||||||||||
簪
纓
所
謂
當
|
間
有
鄧
公
諱
|
艮
支
部
上
等
|
|||||||||||
門
|
運
|
國
|
|||||||||||
而
|
其
|
朝
|
|||||||||||
配
|
先
|
禮
|
|||||||||||
公
|
受
|
部
|
|||||||||||
課
|
封
|
正
|
|||||||||||
童
|
世
|
本
|
|||||||||||
頗
|
承
|
上
|
|||||||||||
精
|
資
|
村
|
|||||||||||
醫
|
蔭
|
奉
|
|||||||||||
術
|
配
|
事
|
|||||||||||
樂
|
本
|
||||||||||||
Trang
2
|
|||||||||||||
儋
|
媚
|
公
|
也
|
潛
|
多
|
禮
|
卯
時
|
九
日
|
行
|
||||
耳
|
寨
|
教
|
南
|
心
|
嘆
|
義
|
善
|
||||||
蒼
|
見
|
化
|
州
|
墳
|
服
|
能
|
早
|
事
|
|||||
梧
|
民
|
服
|
华
|
典
|
之
|
敬
|
失
|
好
|
|||||
廣
|
樸
|
人
|
風
|
教
|
共
|
讓
|
怙
|
賑
|
|||||
信
|
陋
|
為
|
功
|
悔
|
稱
|
聞
|
恃
|
濟
|
|||||
番
|
學
|
之
|
之
|
士
|
為
|
學
|
携
|
公
|
|||||
禺
|
術
|
疏
|
公
|
民
|
聖
|
而
|
来
|
年
|
|||||
麓
|
寡
|
舉
|
也
|
聞
|
童
|
知
|
撫
|
六
|
|||||
冷
|
聞
|
漢
|
民
|
交
|
十
|
聰
|
養
|
旬
|
|||||
七
|
乃
|
帝
|
皆
|
州
|
有
|
音
|
後
|
謝
|
|||||
郡
|
傳
|
大
|
慕
|
教
|
八
|
而
|
生
|
氏
|
|||||
長
|
設
|
喜
|
之
|
化
|
歲
|
審
|
善
|
年
|
|||||
作
|
行
|
之
|
共
|
未
|
考
|
七
|
公
|
四
|
|||||
亂
|
在
|
封
|
推
|
明
|
妣
|
歲
|
一
月
十
二
日
丑
|
生
於
甲
午
年
十
|
十
|
||||
騷
|
于
|
列
|
為
|
綱
|
皆
|
入
|
餘
|
||||||
動
|
津
|
侯
|
州
|
疇
|
殂
|
學
|
女
|
||||||
民
|
次
|
公
|
長
|
未
|
落
|
十
|
子
|
||||||
生
|
教
|
既
|
辰
|
叙
|
月
初
五
日
|
甲
申
年
五
|
有
|
数
|
|||||
帝
|
以
|
受
|
漢
|
公
|
三
|
人
|
|||||||
聞
|
文
|
命
|
昭
|
循
|
歲
|
時
|
男
|
||||||
之
|
字
|
行
|
帝
|
循
|
通
|
相
|
子
|
||||||
咨
|
纔
|
縣
|
命
|
然
|
三
|
史
|
貌
|
尚
|
|||||
廷
|
一
|
邑
|
周
|
善
|
年
|
子
|
殊
|
晚
|
|||||
臣
|
年
|
觀
|
章
|
誘
|
喪
|
頗
|
常
|
以
|
|||||
疇
|
民
|
民
|
為
|
之
|
畢
|
知
|
天
|
侄
|
|||||
能
|
皆
|
風
|
交
|
而
|
公
|
武
|
资
|
光
|
|||||
了
|
慕
|
滴
|
州
|
後
|
與
|
藝
|
穎
|
公
|
|||||
此
以
為
本
|
之
值
珠
涯
|
至
江
津
娥
|
太
守
章
聞
|
民
知
禮
義
|
從
弟
光
公
|
當
時
士
子
|
異
三
歲
知
|
年
正
月
初
|
生
於
己
酉
|
||||
Trang 3
光
|
日
|
光
|
在
|
振
|
檄
|
者
|
乃
|
州
|
||
公
|
坐
|
公
|
曉
|
旅
|
諭
|
以
|
委
|
太
|
||
以
|
府
|
並
|
人
|
還
|
之
|
萬
|
光
|
守
|
||
事
|
堂
|
回
|
以
|
府
|
曉
|
数
|
公
|
岑
|
||
聞
|
忽
|
州
|
恩
|
编
地
|
即
龍
|
以
|
刻
|
娥
|
彭
|
|
帝
|
見
|
縣
|
誼
|
信
|
日
|
媚
|
舉
|
|||
遣
|
赤
|
使
|
民
|
自
|
義
|
直
|
行
|
公
|
||
使
|
光
|
代
|
皆
|
公
|
示
|
擣
|
在
|
德
|
||
諭
|
自
|
致
|
拜
|
為
|
以
|
九
|
代
|
望
|
||
祭
|
身
|
貢
|
謝
|
太
|
禍
|
真
|
公
|
服
|
||
葬
|
中
|
于
|
請
|
守
|
福
|
命
|
教
|
人
|
||
于
|
出
|
漢
|
因
|
刑
|
賊
|
將
|
民
|
必
|
||
此
|
騰
|
帝
|
此
|
罰
|
聞
|
士
|
選
|
能
|
||
地
|
空
|
因
|
今
|
清
|
之
|
分
|
得
|
安
|
||
龍 編
|
自
|
命
|
為
|
省
|
感
|
屯
|
家
|
集
|
||
敕
|
變
|
光
|
生
|
民
|
悟
|
坚
|
下
|
帝
|
||
封
|
即
|
公
|
祠
|
皆
|
束
|
守
|
五
|
許
|
||
福
|
日
|
從
|
後
|
安
|
甲
|
不
|
百
|
之
|
||
神
|
無
|
府
|
為
|
業
|
來
|
得
|
餘
|
命
|
||
準
|
疾
|
事
|
祀
|
公
|
降
|
挑
|
移
|
為
|
||
許
|
而
|
辰
|
所
|
暇
|
七
|
戰
|
檄
|
州
|
||
府
|
没
|
公
|
公
|
復
|
郡
|
因
|
諸
|
守
|
||
民
|
初
十
日
|
丙
午
年
|
年
|
許
|
詣
|
告
|
遣
|
郡
|
使
|
|
立
|
七
|
之
|
娥
|
平
|
文
|
縣
|
平
|
|||
廟
|
旬
|
遂
|
媚
|
公
|
吏
|
來
|
賊
|
|||
祀
|
一
|
與
|
行
|
遂
|
移
|
附
|
公
|
Trang 4
讓
|
其
|
圍
|
大
|
關
|
漢
|
之
|
|
親
|
天
|
公
|
忿
|
公
|
帝
|
餘
|
|
率
|
乎
|
騎
|
破
|
兵
|
因
|
如
|
|
七
|
遂
|
馬
|
關
|
方
|
命
|
九
|
|
郡
|
殂
|
拒
|
門
|
至
|
光
|
真
|
|
酋
|
于
|
戰
|
直
|
山
|
公
|
南
|
|
長
|
區
|
解
|
進
|
南
|
權
|
海
|
|
討
|
棟
|
圍
|
入
|
不
|
掌
|
日
|
|
賊
|
處
|
出
|
境
|
意
|
府
|
南
|
|
莽
|
月
初
十
日
|
丁
未
年
二
|
至
|
公
|
漢
|
事
|
南
|
兵
|
路
|
見
|
兵
|
至
|
海
|
||
不
|
旁
|
漢
|
悴
|
哀
|
陽
|
||
復
|
仰
|
兵
|
至
|
帝
|
娥
|
||
侵
|
頃
|
天
|
盛
|
公
|
辰
|
媚
|
|
自
|
間
|
嘆
|
至
|
曰
|
鄧
|
等
|
|
光
|
江
|
曰
|
即
|
漢
|
讓
|
處
|
|
公
|
濤
|
人
|
引
|
兵
|
為
|
嘗
|
|
没
|
涌
|
臣
|
兵
|
方
|
都
|
被
|
|
邑
|
沸
|
事
|
退
|
拒
|
護
|
公
|
|
民
|
蛟
|
君
|
回
|
莽
|
太
|
教
|
|
奉
|
鱉
|
必
|
娥
|
何
|
守
|
化
|
|
事
|
迭
|
死
|
媚
|
故
|
治
|
者
|
|
二
|
出
|
無
|
行
|
往
|
王
|
皆
|
|
公
|
漢
|
二
|
在
|
南
|
莽
|
迎
|
|
皆
|
兵
|
不
|
無
|
使
|
亂
|
美
|
|
在
|
皆
|
圖
|
何
|
閉
|
讓
|
字
|
|
寨
|
驚
|
至
|
漢
|
關
|
遣
|
奉
|
|
所
|
遂
|
此
|
兵
|
不
|
公
|
事
|
|
至
|
引
|
知
|
夜
|
納
|
將
|
公
|
|
平
|
去
|
我
|
至
|
漢
|
兵
|
没
|
|
帝
|
鄧
|
者
|
重
|
將
|
守
|
後
|
Trang 5
雄
|
城
|
聞
|
|||
王
|
隍
|
本
|
大
|
一
|
公
|
祠
|
上
|
邑
|
南
|
封
|
名
|
领
|
等
|
上
|
成
|
光
|
績
|
抄
|
大
|
下
|
泰
|
來
|
表
|
故
|
王
|
二
|
拾
|
公
|
見
|
奉
|
事
|
村
|
壹
|
翊
|
於
|
抄
|
跡
|
奉
|
年
|
運
|
漢
|
一
|
依
|
祀
|
龍
|
顯
|
有
|
本
|
如
|
飛
|
祐
|
功
|
|
為
|
正
|
己
|
大
|
乃
|
|
廣
|
本
|
亥
|
王
|
遣
|
|
其
|
由
|
吉
|
準
|
使
|
|
傳
|
舊
|
月
|
娥
|
敕
|
|
云
|
本
|
吉
|
媚
|
封
|
|
爾
|
失
|
日
|
九
|
贈
|
|
內
|
落
|
阮
|
真
|
封
|
|
纸
|
這
|
有
|
日
|
善
|
|
五
|
本
|
翼
|
南
|
元
|
|
張
|
新
|
奉
|
海
|
公
|
|
就
|
抄
|
陽
|
濟
|
||
諸
|
世
|
||||
祠
|
護
|
||||
同
|
國
|
||||
奉
|
大
|
||||
事
|
王
|
Phần ba
BẢN IN
ĐỐI CHIẾU
Chữ Hán – Phiên âm – Dịch nghĩa
( Do
TS. Nguyễn Đình Đức thực hiên)
Chữ Hán
|
Âm Hán -Việt
|
Dịch nghĩa
|
漢 昭 帝 辰 至 哀 帝 朝 二 位 大 王 艮 支 部 上 等 國 禮 部 正 本 上 村 奉 事
|
Hán Chiêu đế thời chí Ai đế triều nhị vị đại vương Cấn chi bộ
thượng đẳng quốc Lễ bộ chính bản Thượng thôn phụng sự
|
Sự tích hai vị Đại Vương thời Hán Chiêu Đế ( - 86 )
đến Hán Ai Đế (-6) (thuộc chi Cấn bộ
Thượng đẳng ). Bản chính của Bộ Lễ Quốc triều. (thôn Thượng thờ phụng).
|
漢 昭 帝 辰 內 地 龍 編 猶 屬 我 國 間 有 鄧 公 諱 運 其 先
受 封 世 承 資 蔭 配 本郡 人 謝 氏 諱 謹
傳 家 詩 禮 累 世
簪 纓 所 謂 當 門
而 配
公 課 童 頗 精 醫
術 樂 行 善 事
好 賑 濟
|
Hán Chiêu đế thời nội địa Long Biên do thuộc ngã quốc, gian hữu
Đặng Công huý Vận, kì tiên thụ phong, thế thừa tư ấm. Phối bản quận nhân Tạ
thị Huý Cẩn, truyền gia thi lễ, luỹ thế trâm anh, sở vị đương môn nhi phối.
Công khoá đồng phả tinh y thuật,
lạc hành thiện sự, hiếu chẩn tế.
|
Thời Long Biên nước ta còn nội thuộc vua
Hán Chiêu Đế. Bấy giờ có ông họ Đặng, tên húy là Vận, tổ tiên được tước
phong, con cháu nối đời tập ấm. Ông lấy người trong quận họ Tạ, tên huý là Thị
Cẩn, cũng là con nhà thi lễ, dòng dõi trâm anh, thật là môn đăng hộ đối., Ông
dạy học song lại giỏi chữa thuốc thường
thích làm việc thiện và cứu giúp những người nghèo khổ.
|
公 年 六 旬 謝 氏
年 四 十 餘 女 子
数 人 男 子 尚 晚
以 侄 光 公 生 於 己 酉 年 正
月 初 九 日 卯 時 早 失 怙 恃 携 來 撫 養
|
Công niên lục tuần, Tạ thị niên tứ thập dư, nữ tử sở nhân;
nam tử thượng vãn. Dĩ điệt Quang công ( sinh ư Kỷ Dậu niên chính nguyệt sơ cửu
nhật Mão thời) tảo thất hỗ thị, hồ lai phủ dưỡng
|
Ông đã ngoài 60, vợ cũng ngoài 40 tuổi mà chỉ sinh được mấy người con
gái, chưa có con trai. Vì thế ông bà đem người cháu tên là Quang ( sinh giờ
Mão, ngày mồng 9 tháng Giêng năm Kỷ Dậu ) vốn không có nơi nương tựa về nuôi.
|
後 生 善 公 生
於 甲 午 年 十 一
月
十 二 日 丑
辰
相 貌 殊
常 天 資 穎 異
三 歲 知 禮 義 能
敬 讓 聞 學 而
知 聰 音 而 審 七
歲 入 學 十 有 三
歲 通 史 子 頗 知 武 藝 當 辰 士 子 多
嘆 服 之 共 稱 為
聖 童
|
Hậu sinh Thiện công ( sinh
ư Giáp Ngọ niên thập nhất nguyệt thập
nhị nhật Sửu thời), tướng mạo thù thường, thiên tư dĩnh dị. Tam tuế chi lễ
nghĩa, năng kính nhượng, văn học nhi chí, thính âm nhi thẩm. Thất tuế nhập học,
thập hữu tam tuế thông sử tử, phả tri võ nghệ. Đương thời sĩ tử đa thán phục
chi cộng sinh vi Thánh đồng.
|
Về sau ông bà sinh hạ được
ông Thiện ( sinh giờ Sửu, ngày 12 tháng 11 năm Giáp Ngọ), tướng mạo khác thường, thông minh dĩnh ngộ. Mới 3 tuổi
đã hiểu lễ nghĩa, biết kính, nhường, nghe học đã thuộc, nghe nhạc nhớ ngay. Bảy
tuổi đến trường học, 13 tuổi thông hiểu sử sách, lại giỏi cả võ nghệ, sĩ tử
đương thời đều bái phục và xưng tụng là Thánh đồng.
|
十 有 八 歲 考 妣
皆 殂 落 甲
申 年
五
月 初 五 日
三 年 喪 畢 公 與
從 弟 光 公 潛
心 墳 典 教 悔
士 民
|
Thập hữu bát tuế khảo tỷ giai tổ
lạc (Giáp Thân niên, ngũ nguyệt sơ ngũ nhật).
Tam niên tang tất, công dữ tòng
đệ Quang công tiềm tâm phần điển, giáo hối
sĩ dân.
|
Năm 18 tuổi, cha mẹ đều qua đời
( ngày mùng 5 tháng 5 Giáp Thân). Ba năm cư tang xong, ông cùng người em họ
là Quang rất quan tâm đến việc đạo nghĩa để dạy dỗ sĩ dân.
|
聞 交 州 教 化
未 明 綱 疇 未 叙
公 循 循 然 善
誘 之 而 後 民 知
禮 義 也 南 州 华
風 公 之 功 也
|
Văn Giao Châu giáo hóa vị
minh, cương trù vị tự, công tuần tuần nhiên thiện dụ chi nhi hậu dân tri lễ
nghĩa dã. Nam Châu hoa phong công chi công dã.
|
Nghe tin ở Giao Châu giáo hóa chưa được rõ ràng, tôn ty trật tự chưa
có nề nếp, ông dần dần đem điều thiện cải hóa mọi người, khiến dân chúng sau
này đầu biết lễ nghĩa, phong tục tốt đẹp ở Nam Châu đều nhờ công lao của ông.
|
民 皆 慕 之 共 推
為 州 長 辰 漢
昭 帝 命 周
章 為 交 州 太
守 章 聞 公 教
化 服 人 為 之 疏 舉 漢 帝 大 喜 之 封
列 侯
|
Dân giai mộ chi cộng xung vi
Châu trưởng. Thời Hán Chiêu Đế mệnh Chu Chương vi Giao Châu Thái thú. Chương
văn công giáo hóa phục nhân vi chi sớ cử. Hán Đế đại gia chi phong liệt Hầu.
|
Dân chúng rất kính
trọng, suy tôn ông làm Châu trưởng. Lúc đó vua Chiêu Đế nhà Hán sai Chu Chương làm Thái thú Giao châu. Nghe tin ông đã dạy
dỗ và được dân cảm phục, liền dâng sớ tiến cử, vua Hán rất khen ngợi, phong
cho ông vào hàng các quan lớn tước Hầu.
|
公 既 受 命 行
縣 邑 觀 民 風
滴 至 江 津 娥 媚
寨 見 民 樸 陋 學
術 寡 聞 乃 傳
設 行 在 于 津 次
教 以 文 字 纔 一 年 民 皆 慕 之
|
Công ký thụ mệnh hành huyện ấp
quan dân phong, thích chí giang tân Nga My trại kiến dân phác lậu học thuật
quả văn, nãi truyền thiết hành tại vu tân thứ giáo dĩ văn tự. Tài nhất niên
dân giai mộ chi.
|
Nhận chức xong, ông liền đi thăm thú các huỵện ấp, xem xét dân tình.
Chợt đến Trại Nga My bên bờ sông, thấy dân chúng nơi đây chất phác, ít được học
hành, ông bèn truyền lệnh dựng nhà ngay trên bờ sông để dạy dân chữ nghiã. Mới
được một năm, dân ở đây ai cũng kính trọng ông.
|
值 珠 涯 儋 耳
蒼 梧 廣 信
番 禺 麓 冷 七
郡 長 作 亂 骚
動 民 生 帝 聞 之
咨 廷 臣 疇 能 了
此 以 為 本 州
|
Trị Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Thượng
Ngô, Quảng Tín, Thẩm Ngu, Lộc Lãnh, thất quận trưởng tác loạn; tao động dân
sinh. Đế văn chi tư đình thần trù năng liễu thử. Di vĩ bản châu
|
Gặp lúc quận trưởng
của 7 quận: Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Thương Ngô, Quảng Tín, Phiên Ngung, Lộc Lãnh
nổi loạn, đời sống của dân chúng náo động. Vua biết tin, hỏi ý các đình thần
để trù tính kế sách dẹp giặc.
|
太 守 岑 彭 舉
公 德 望 服 人
必 能 安 集 帝 許
之 命 為 州 守 使
平 賊
公 乃 委 光 公 娥 媚 行 在
代 公 教 民
選 得 家 下 五 百
餘 移 檄 諸 郡 縣
來 附 者 以 萬 数
刻 日 直 擣 九 真
命 將 士 分 屯
坚 守 不 得 挑 戰
因 遣 文 吏 移 檄
誘 之 曉 以 信 義
示 以 祸 福 賊 聞
之 感 悟 束 甲 來
降
七 郡 告 平
公 遂 振 旅 還 府
(即
龍 編 地 )
|
Thái thú Sầm Bành cử
công đức vọng phục nhân tất
năng an tập, Đế hứa
chi mệnh vi Châu thú sử bình tặc.
Công nãi ủy Quang công Nga My
hành tại đại công giáo dân,
tuyển đắc gia hạ ngũ bách dư, di hịch chư quận
huyện, lại phụ giả dĩ vạn sổ. Khắc nhật trực đảo Cửu Chân, mệnh tướng sĩ phân
dồn kiên thủ bất đắc khiêu chiến.
Nhân khiển văn lại di hịch dụ
chi, hiểu dĩ tín nghĩa ,
thị dĩ họa phúc, tặc văn
chi cảm ngộ thúc giáp lai hàng.
Thất quận cáo bình, công toại
chấn lữ hoàn phủ ( tức Long Biên địa).
|
Thái thú bản Châu là Sầm Bành biết ông là người đức độ, được dân mến
phục, ắt có thể dẹp được loạn, liền tiến cử vua. Nhà vua ưng thuận sai ông
làm chức Châu thú đem quân đi dẹp giặc. Ông bèn trao cho ông Quang thay mình ở
lại hành tại Nga My dạy dỗ, giáo hóa dân. Đồng thời ông tuyển chọn được hơn
500 gia thần đi theo. Ông lại truyền hịch đi các quận huỵện, người tình nguyện
đi theo kể tới vài vạn; ấn định ngày giờ, đoàn quân tiến thẳng đến áp đảo quận
Cửu Chân. Ông lệnh cho tướng sĩ chia nhau đóng đồn kiên thủ không ra khiêu
chiến. Nhân đó lại sai quan văn viết hịch , lấy tín nghĩa để hiểu dụ, lấy họa
phúc để răn đe giặc.
Nghe những lời lẽ xác
đáng, bọn giặc tỉnh ngộ bó giáo lai hàng, 7 quận trở lại yên ổn thanh bình,
ông bèn chỉnh đốn quân sĩ trở về phủ (
tức đất Long Biên).
|
自 公 為 太 守 刑
罰 清 省 民 皆 安
業 公 暇 復 詣
娥 媚 行 在 曉 人
以 恩 誼 民 皆 拜 謝 請 因 此 今 為 生
祠 後 為 祀 所
公 許 之 遂 與
光 公 並 回 州
縣 使 代 致 貢 于
漢 帝 因 命 光 公 從 府 事
|
Tự công vi Thái thú, hình phạt
thanh tỉnh, dân giai an nghiệp. Công hạ phục nghệ Nga My hành tại hiểu nhân
dĩ ân nghị, dân giai bái tạ thỉnh nhân thử kim vi sinh từ, hậu vi tự sở.
Công hứa chi, toại dữ
Quang công tịnh hồi châu huyện,
sử đại chí cống vu Hán Đế, nhân mệnh Quang công tòng phủ sự.
|
Từ khi ông làm Thái thú, hình phạt được
giảm nhẹ, dân chúng đều an cư lạc nghiệp. Lúc rảnh việc, ông lại trở về hành
tại Nga My giảng giải cho dân những điều ân nghĩa, dân chúng đều bái tạ, nhân
xin lấy chỗ hành tại, khi ông sống thì làm sinh từ, khi ông mất sẽ làm nơi thờ
phụng. Ông ưng thuận rồi cùng ông Quang trở về Châu huyện, sai thay mình đến
cống vua Hán, đồng thời cho ông Quang làm việc ở phủ.
|
辰 公 年 七 旬
一 日 坐 府 堂
忽 見 赤 光 自 身
中 出 騰 空 自
變 即 日 無 疾 而
没 (丙 午 年 八 月
初 十 日 )
光 公 以 事 聞
帝 遣 使 諭 祭 葬
于 此 地 (龍 編 ) 敕
封 福 神 準 許
府 民 立 廟 祀 之
餘 如 九 真 南 海
日 南 海 陽
娥 媚 等 處
嘗 被 公 教 化
者 皆 迎 美 字
奉 事
|
Thời công niên thất tuần,
nhất nhật tọa phủ đường, hốt kiến xích quang tự thân trung xuất đằng không tự
biến, tứ nhật vô tật nhi một ( Bính Ngọ niên bát nguyệt sơ thập nhật).
Quang công dĩ sự văn,
Đế khiển sớ dụ tế tang vu thử địa ( Long Biên), sắc
phong phúc thần, chuẩn hứa phủ dân lập miếu tự chi.
Dư như Cửu
Chân, Nam Hải,
Nhật Nam,
Hải Dương, Nga My đẳng xứ thường
bị công giáo hóa giả, giai
nghênh mỹ tự phụng sự.
|
Lúc đó ông đã 70 tuổi, một hôm đang ngồi ở phủ đường, ông bỗng thấy một
luồng ánh sáng đỏ từ trong người bay vút lên không trung rồi biến mất. Ngày
hôm đó, ông không bệnh tật gì mà hóa ( vào ngày 10/8 năm Bính Ngọ). Ông Quang
đem sự việc tâu lên, vua sai sứ đến tế và an táng ngay ở đó (Long Biên), lại
phong cho làm phúc thần cho dân phủ lập miếu thờ phụng. Ngoài ra những nơi
như Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, Hải Dương, Nga My, thường được hưởng sự giáo
hóa của ông đều được rước mỹ tự về thờ phụng.
|
公 没 後 漢 帝
因 命 光 公
權 掌 府 事
至 哀 帝 辰 鄧
讓 為 都 護 太 守
值 王 莽 亂 讓 遣
公 將 兵 守 關
|
Công một Hậu Hán Đế nhân mệnh
Quang công quyền chưởng phủ sự.
Chí Ai Đế thời Đặng Nhượng vi
đô hộ Thái thú, trị Vương Mãng loạn, Nhượng khiển công tương binh thủ quan.
|
Sau khi ông qua đời, vua Hán sai ông Quang thay quyền cai trị ở phủ.
Đến thời vua Ai Đế nhà Hán, Đặng Nhượng làm Thái thú đô hộ, gặp lúc Vương
Mãng nổi loạn, Đặng Nhượng sai ông Quang đi trấn giữ cửa ải.
|
公 兵 方 至 山
南 不 意 漢 兵 悴 至 公 曰 漢 兵 方
拒 莽 何 故 往 南
使 閉 關 不 納
|
Công binh phương chí Sơn Nam bất ý Hán binh tụy chí, công viết: Hán
binh phương cự Mãng hà cố vãng Nam, sử bế quan bất nạp.
|
Quân ông vừa đi đến Sơn Nam, bất ngờ quân Hán rầm rập kéo đến. Ông
nói, quân Hán đang đánh nhau với Vương Mãng thì cớ gì lại kéo sang nước Nam,
liền sai đóng cửa quan không cho vào.
|
漢 將 大 忿 破
關 門 直 進 入
境
公 見 漢 兵 盛
至 即 引 兵 退
回 娥 媚 行 在
|
Hán tướng đại
phẫn phá quan môn trực tiến nhập cảnh.
Công kiến Hán
binh thịnh chí, tức dẫn binh thoái hồi Nga My hành tại.
|
Tướng Hán rất tức giận sai
phá cửa quan tiến thẳng vào địa phận nước ta. Thấy quân Hán cứ aò ào kéo vào,
thế rất mạnh, ông lập tức rút quân về Nga My.
|
無 何 漢 兵 夜 至 重 圍 公 騎 馬 拒 戰 解 圍 出 至 路 旁 仰
天 嘆 曰 人 臣 事
君 必 死 無 二 不 圖 至 此 知 我 者 其 天 乎 遂 殂 于 塸 埬 處 (丁 未 年 二 月 初 十 日)
|
Vô hà Hán binh dạ chí trùng vi,
công kỵ mã cự chiến giải vi, xuất chí lộ bàng, ngưỡng thiên thán viết: nhân
thần sự quân tất tử vô nhị, bất đồ chí thư tri ngã giả kỳ thien hồ, toại tồ
vu Khu Đống xứ ( Đinh Mùi niên nhị nguyệt sơ thập nhật).
|
Chẳng bao lâu quân Hán đến
kịp, nhân lúc đêm tối, chúng bủa chặt vòng vây. Ông cưỡi ngựa xông ra cự chiến,
đến bên đường, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng : Kẻ bề tôi thờ vua dẫu chết
vần không hai lòng, không ngờ đến nông nỗi này, có lẽ chỉ có trời mới hiểu ta
chăng; nói rồi ông hóa ở xứ Khu Đống ( nhằm ngày 10/2 năm Đinh Mùi).
|
頃
間 江 濤
涌 沸 蛟 鱉 迭
出 漢 兵 皆 驚
遂 引 去 鄧 讓
親 率 七 郡 酋
長 討 賊 莽 兵
不 復 侵
自 光 公 没 邑 民
奉 事 二 公 皆 在
寨 所
|
Khoảnh gian giang đào dũng phí,
giao miết điệt xuất, Hán binh giai kinh toại dẫn khứ. Đặng Nhượng thân xuất
thất quận tù trưởng thảo tặc, Mãng binh bất phục xâm.
Tự Quang công một ấp dân phụng
sự nhị công giai tại trại sở.
|
Trong khoảnh khắc, nước sông cuộn sóng sôi sùng sục, thuồng luồng,
ba ba nổi đầy mặt nước. Quân Hán kinh sợ bèn bỏ chạy. Đặng Nhượng đích thân
chỉ huy tù trưởng lấy quân đi dẹp giặc, quân Vương Mãng không dám kéo đến xâm
lược nữa. Từ khi ông Quang qua đời, dân ấp thờ phụng cả hai người ở trại Nga My.
|
至 平 帝 聞 公 名
绩 表 見 於 漢 帝
有 功 乃 遣 使 敕
封 贈
封 善 元 公 濟 世
護 國 大 王
一 封 光 來 公 翊 運 顯 祐 大 王
準 娥 媚 九 真 日 南 海 陽 諸 祠 同 奉 事
|
Chí Bình Đế văn công danh tích
biểu hiện, ư Hán Đế hữu công, nãi khiển sứ sắc phong tặng:
- Phong “ Thiện Nguyên Công, Tế thế, Hộ
quốc, Đại Vương”;
Nhất
phong “ Quang Lai Công, Dực vận, Hiển hựu, Đại Vương”.
Chuẩn Nga My, Cửu Chân, Nhật Nam,
Hải Dương chư từ đồng phụng sự.
|
Đời Bình Đế, nghe tiếng các ông có nhiều công tích với nhà Hán, bèn
sai sứ ban sắc phong tặng là:
-
Thiện
Nguyên Công, Tế thế, Hộ quốc, Đại vương
-
Quang
lai công, Dực vận Hiển hựu, Đại vương
Cho phép các đền ở Nga
My, Cửu Chân, Nhật Nam, Hải Dương cùng thờ phụng hai ông.
|
大 南 成 泰 拾
壹 年 龍 飛 己 亥
吉 月 吉 日
阮
有 翼 奉 抄
本 邑 上 下 二
村 奉 祀
|
Đại Nam Thành Thái thập nhất niên long phi,
Kỷ Hợi, cát nguyệt, cát nhật (Nguyễn Hữu Dực phụng sao).
Bản ấp Thượng Hạ nhị thôn phụng sự.
|
Ngày lành, tháng tốt, năm Kỷ Hợi, nước Đại Nam, Niên hiệu Thành
Thái 11 ( 1899), Nguyễn Hữu Dực phụng sao, dân chúng hai thôn của bản ấp thờ
phụng.
|
城 隍 上 等
大 王 事 跡 依 如
正 本
由 舊 本 失
落 這 本 新 就
雄 王 祠 领 抄
故 奉 抄 一 本 以
廣 其 傳 云 爾
內 纸 五 張
.
|
Thành Hòang
thượng đẳng Đại Vướng sự tích y như chính bản ( do cựu bản thất lạc, giá bản
tân tạo).
Hùng Vương từ
lĩnh sao. Cố phụng sao nhất bản dĩ quảng kỳ truyền vân nhĩ ( nội chỉ ngũ
trương)
|
Sự tích Đại vương Thành
Hoàng thượng đẳng y như bản chính. ( Bản chính cũ bị thất lạc, bản này do mới
đến đền Hùng xin sao lại để lưu truyền rộng rãi, bản sao gồm năm trang.
|
Phần bốn
HỆ THỐNG CUỐN THƯ - HOÀNH PHI - CÂU ĐỐI
Đình làng Nga My Thượng
[ Do Cụ Hà Đắc Thụy ( 1924 –
2008) sao chép, sơ dich
TS. Nguyễn Đình Đức vi tính, tổ chức phiên âm,
hoàn thiện dịch]
CUỐN THƯ 1
巍 峨 亭 宇 對
乾 坤
神 妙 圖 書 不
盡 言
陟 降 仰 古 步
初 大
重 新 點 綴 壯
花 村
Phiên âm
Nguy nga đình vũ đối càn khôn
Thần diệu đồ
thư bất tận ngôn
Trắc giáng
ngưỡng cổ bộ sơ đại
Trùng tân điểm
xuyết tráng hoa thôn
Dịch nghĩa
Miếu điện nguy nga sánh cùng trời đất
Bức vẽ thần
diệu khó tả thành lời
Lên xuống
cung kính chiêm bái đức lớn
Tu sửa lại điểm
xuyết cho thôn Hoa thêm hào tráng.
CUỐN THƯ 3.
山 德 海
Phiên âm
Đức Hải Sơn
Dịch nghĩa
Đức lớn tựa non bể
HOÀNH PHI 1
(Tại hậu cung)
祠 靈 上 峨
Phiên âm
Nga Thượng Linh Từ
Dịch nghĩa
Đền thiêng Nga Thượng
HOÀNH PHI 2
HOÀNH PHI 2
大 兩 天 參
Phiên âm
Tham Thiên Lưỡng Đại
Dịch nghĩa
Bao trùm khắp cõi trời đất.
ĐÔI CÂU
ĐỐI TƯỜNG TIỀN HẬU CUNG
( HAI BÊN NGOÀI)
MIẾU
|
廟
|
左
|
TẢ
|
ĐƯỜNG
|
堂
|
右
|
HỮU
|
TĂNG
|
增
|
所
|
SỞ
|
HOÁN
|
煥
|
宜
|
NGHI
|
BIỆT
|
別
|
新
|
TÂN
|
QUY
|
規
|
衣
|
Y
|
MÔ
|
模
|
度
|
ĐẠC
|
Dịch nghĩa
Bên phải
bên trái đã được sắp xếp như mới
Miếu đường rực rỡ càng tăng thêm vẻ
quy mô
CÂU ĐỐI
Ở TƯỜNG TIỀN HẬU CUNG
( ĐÔI Ở GIỮA)
BẮC
|
北
|
南
|
NAM
|
TRIỀU
|
朝
|
峨
|
NGẠ
|
PHIÊN
|
藩
|
精
|
TINH
|
TRẤN
|
鎮
|
花
|
HOA
|
HÁCH
|
赫
|
鍾
|
CHUNG
|
DƯ
|
餘
|
灝
|
HẠO
|
LINH
|
靈
|
氣
|
KHÍ
|
Dịch nghĩa
Tinh hoa ở
đất Nam Ngạ chung đúc nên hạo khí
Giữ phiên trấn ở Bắc triều dấu tích
còn linh thiêng hiển hách.
CÂU ĐỐI Ở CỘT HIÊN HẬU CUNG
( CỘT NGOÀI)
NHƯỢC
|
若
|
洋
|
DƯƠNG
|
NĂNG
|
能
|
在
|
TẠI
|
NGÔN
|
言
|
上
|
THƯỢNG
|
HỒ
|
乎
|
與
|
DỮ
|
VẠN
|
萬
|
两
|
LƯỠNG
|
TUẾ
|
歲
|
儀
|
NGHI
|
GIẢ
|
者
|
同
|
ĐỒNG
|
TAM
|
三
|
樂
|
LẠC
|
Dịch nghĩa
Mênh mang ở trên cao cùng hợp với hai
khí âm dương
Nếu có thể nói ra được hết thì muôn
thuở vẫn còn được cả ba[1]
CÂU ĐỐI Ở CỘT HIÊN HẬU CUNG
( CỘT TRONG)
NGUYỆT
|
月
|
天
|
THIÊN
|
ẢNH
|
影
|
光
|
QUANG
|
ĐOÀN
|
團
|
隱
|
ẨN
|
VIÊN
|
圓
|
約
|
ƯỚC
|
SẮC
|
色
|
情
|
TÌNH
|
VỊ
|
位
|
無
|
VÔ
|
NGHIÊN
|
妍
|
限
|
HẠN
|
Dịch nghĩa
Ánh sáng trên trời lấp lánh tình cảm dài vô hạn
Mảnh trăng
tròn vành vạnh sắc vẻ thực tốt tươi.
CÂU ĐỐI CỘT TRỤ HẬU CUNG
TRANH
|
崢
|
密
|
MẬT
|
VANH
|
嶸
|
通
|
THÔNG
|
CỔ
|
古
|
龍
|
LONG
|
MIẾU
|
廟
|
扁
|
BIỂN
|
ĐIÊU
|
雕
|
秀
|
TÚ
|
TƯỜNG
|
墙
|
水
|
THỦY
|
HỌA
|
畫
|
奇
|
KÌ
|
ĐỐNG
|
棟
|
峰
|
PHONG
|
THỊ
|
是
|
多
|
ĐA
|
VĂN
|
文
|
景
|
CẢNH
|
CHƯƠNG
|
章
|
色
|
SẮC
|
Dịch nghĩa
Long biển đều
thông tỏ hết nước biếc non xanh hiện nhiều cảnh sắc
Ngôi cổ miếu
cao sừng sững tường vẽ tranh cột chạm trổ ấy là văn chương.
QUỐC
|
國
|
神
|
THẦN
|
TẾ
|
祭
|
功
|
CÔNG
|
HINH
|
馨
|
溥
|
PHỔ
|
HƯƠNG
|
香
|
炼
|
LUYỆN
|
VĨNH
|
永
|
参
|
THAM
|
TRỤ
|
柱
|
天
|
THIÊN
|
DUY
|
維
|
地
|
ĐỊA
|
Dịch nghĩa
Công lao của tôn thần đóng góp cùng trời đất
Tế lễ quốc
gia rực rỡ trang nghiêm mãi mãi vững bền
CÔNG
|
功
|
德
|
ĐỨC
|
CAO
|
高
|
大
|
ĐẠI
|
HỘ
|
护
|
安
|
AN
|
QUỐC
|
國
|
民
|
DÂN
|
VẠN
|
萬
|
千
|
THIÊN
|
NIÊN
|
年
|
古
|
CỔ
|
TRƯỜNG
|
長
|
盛
|
THỊNH
|
Dịch nghĩa
Đức lớn yên dân ngàn năm thịnh
Công cao giúp nước muôn năm dài.
( Đức lớn yên dân ngàn đời thịnh; Công cao giúp nước vạn năm dài)
Cảm ơn những tư liệu quý của tác giả.
Trả lờiXóaXin xem bình luận về các vị thành hoàng ở Nga My Thượng:
https://hungvietsuquan.blogspot.com/2018/11/cac-vi-nam-giao-hoc-to-ben-song-hat.html